Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào hỏi bà Elizabeth. Bà Elizabeth vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng:“Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Luca 1:39-45).
Qua trình thuật trên, Thánh Luca đã tỷ mỷ tường thuật về việc Đức Maria đi thăm viếng người chị họ mình là Isave (Elizabeth). Hành động của Mẹ không chỉ nói lên tình cảm thân thiết giữa hai chị em, đặc biệt, trong tình trạng bà Isave đang mang thai lúc tuổi đã cao và ở những tháng cuối. Cuộc thăm viếng này không dừng lại ở khía cạnh tình cảm, nó còn mang ý nghĩa giới thiệu với bà Isave, với bào thai Gioan và cả thế giới một tin vui, đó là chính Đức Maria cũng đang mang thai, mà thai nhi ấy là Con Thiên Chúa, Đấng nhập thể để cứu chuộc nhân loại.
Sơ lược lịch sử
Theo danh sách các lễ trong “Statuta Synodalia eccl. Cenomanensis”, Mẹ Thăm Viếng được kính vào ngày 2 tháng Bảy tại Le Mans năm 1247. Tài liệu Dòng Anh Em Hèn Mọn (Dòng Phanxicô) thì ghi rằng các tu sỹ Phanxicô đã mừng lễ này từ năm 1263 theo lời đề nghị của Thánh Bonaventura.
Lễ Mẹ Thăm Viếng đã được Giáo Hội hoàn vũ đón nhận bắt đầu kể từ thời kỳ Giáo Hội bị phân chia thành hai: Giáo Hội Công Giáo Roma và Giáo Hội Chính Thống Đông Phương năm 1054. Ngày 6 tháng Tư năm 1389, Đức Giáo Hoàng Urban VI ra lệnh cử hành lễ Mẹ Thăm Viếng trên toàn Giáo Hội, với hy vọng rằng, Đức Kitô và Rất Thánh Đồng Trinh Maria sẽ thăm viếng Giáo Hội và chấm dứt sự chia rẽ của Giáo Hội.
Từ năm 1969, Lễ Mẹ Thăm Viếng được cử hành vào ngày 31 tháng Năm, theo sau lễ Truyền Tin và trước lễ Sinh Nhật của Gioan Tẩy Giả. Lễ Mẹ Thăm Viếng được đặt giữa Truyền Tin (25 tháng Ba) và sinh nhật Gioan Tẩy Giả (24 tháng Sáu) để phù hợp với câu truyện Phúc Âm (Calendarium Romanum (Libreria Editrice Vaticana, 1969). [1]
Hành trình Đức Ái
Ngay sau ngày Truyền Tin, Đức Maria đã “vội vã” vượt một đoạn đường đồi núi vào khoảng chừng 100 dặm từ Nazareth đến Ein Karem, Hebron phía nam Giêrusalem [2] để thăm chị họ mình là Isave, một cuộc hành trình đường dài, và dĩ nhiên, cũng không hề thoải mái, nhẹ nhàng đối với một người phụ nữ; đặc biệt, phụ nữ đó mới có thai. Biến cố Truyền Tin và Nhập Thể xảy ra cùng một thời điểm, vì sự hiện diện của Maria, và hơn thế, sự hiện diện của Chúa Con trong bụng Mẹ, theo thánh ý của Thiên Chúa, đã trở thành nguồn suối của muôn ơn lành cho thánh Gioan, vị Tiền Hô của Chúa Cứu Thế (Luca 1:39-57). Có giả thiết cho rằng trên con đường từ Nazareth đến Erin Karem cũng có Thánh Giuse cùng đi để nâng đỡ và bảo vệ Đức Maria. Sau đó, ngài về lại Nazareth và ba tháng sau lại đến để đón Đức Mẹ về nhà mình (Matthêu 1:19-25).
Phần lớn những người phụ nữ khi biết mình có thai thì không muốn đi đường xa và vất vả như vậy. Nhưng Đức Maria đã làm ngược lại, Mẹ đã không nghĩ đến mình nhưng đến nhu cầu cần được giúp đỡ của người chị mình, và vì thế có thể gọi đây là một cuộc viếng thăm mang sứ vụ bác ái.
Cho đi và tự hiến. Thánh Têrêsa Calcutta khi suy về hành trình bác ái của Mẹ đã diễn tả ý nghĩa này bằng một hình ảnh liên tưởng rất thâm sâu về mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm cho đi và tự hủy vì người mình yêu của Chúa Giêsu, người Con mà Mẹ đang mang trong lòng:
“Trong mầu nhiệm Truyền Tin và Thăm Viếng, Đức Maria là mẫu gương của đời sống mà chúng ta cần được hướng dẫn. Trước hết, Mẹ đã đón nhận Chúa Giêsu vào cuộc đời của Mẹ; rồi Mẹ đã chia sẻ những gì mình đã lãnh nhận. Mỗi khi chúng ta đón nhận Mình Thánh Chúa, Chúa Giêsu là Lời đã trở thành xác phàm trong đời sống của chúng ta – tặng ân của Thiên Chúa, Đấng cùng mọi lúc đẹp đẽ, tốt lành, duy nhất. Có thể nói, Thánh lễ đầu tiên đó là: Đức Maria hiến dâng Người Con trong Mẹ, trong Mẹ, Ngài đã thiết lập bàn thờ đầu tiên. Maria, người duy nhất có thể cảm nhận với sự xác tín tuyệt đối, “đây là mình ta”, từ ngay giây phút đầu tiên được hiến dâng thân xác, sức lực, và toàn thể con người của Mẹ, để làm nên Thân Xác của Đức Kitô” (Thánh Têrêsa Calcutta). [3]
Phép lạ của Đức Bác Ái đã xảy ra, khi Đức Maria vừa đến, cảm nhận được sự hiện diện của Đấng Cứu Thế, Gioan đã nhảy mừng trong lòng mẹ mình, và trong khoảnh khắc ấy, ông được sạch tội Nguyên Tổ và tràn đầy ơn huệ của Thiên Chúa.
Phần bà Isave, cũng đã nhận ra đây là mẹ của Đấng Cứu Thế cao cả. Cùng lúc bà được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và dưới sự hướng dẫn ấy, bà đã tuyên xưng Đức Maria và đón nhận Mẹ Maria như người được chúc phúc giữa muôn phụ nữ, là Mẹ của Đấng Tối Cao. Đức Maria cũng theo gương Isave sau lời chào mừng, Mẹ cũng được thôi thúc bởi Thánh Thần đã cất tiếng vui mừng, tạ ơn Thiên Chúa.
Hai lời kinh ngát hương
Những lời đối đáp của hai chị em đã làm nên hai kinh nguyện tuyệt vời của Giáo Hội. Với những lời của Isave, Giáo Hội đã có một kinh Kính Mừng dâng lên Mẹ Chúa:
Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ.
Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử, Amen.
Với lời hòa nhịp của Đức Maria, Lời Ngợi Khen đã trở thành một lời kinh chiều dâng về Thiên Chúa quyền uy:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới ;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn !
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời.”
(Luca 1:46-55)
Cùng với Giáo Hội, chúng ta dâng lên lời ngợi khen Thiên Chúa, Đấng toàn năng và đầy tình thương đã ban cho nhân loại người Mẹ tinh tuyền, thánh đức, tuyệt vời. Và tha thiết cầu xin với Mẹ:
“Thứ Hai. Đức Bà đi viếng bà Thánh Isave
Ta hãy xin cho được lòng yêu người”.
Tài liệu tham khảo:
1. https://epicpew.com/8-facts-visitation/
2. https://aleteia.org › 2019 › May › 31
Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”
Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội.
Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).
Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David. Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa, Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *
Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.”
Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.
Anh chị em thân mến,
Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]
Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người.
Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.
Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.
Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?